Kính tiềm vọng là một vũ khí hoạt động dưới nước ở độ sâu của kính tiềm vọng (cách mặt nước khoảng 8-10 mét). Nó bao gồm một thấu kính quang học có thể kéo dài hoặc thu ngắn và nâng lên khỏi mặt nước để quan sát mục tiêu. Thấu kính quang học bao gồm các lăng kính ở cả hai đầu, với một thấu kính định hình lại và một thấu kính hoán đổi được ở giữa. Khi mục tiêu được phát hiện ở một đầu của lăng kính, mục tiêu sẽ đi qua thấu kính trung gian và thấu kính định hình, sau đó phản xạ trở lại vật chứa. Hiện nay, kính tiềm vọng được trang bị các thiết bị mới, như chụp ảnh hồng ngoại, thiết bị quan sát ban đêm, laser và trinh sát … nhằm nâng cao khả năng phát hiện vật thể trên mặt nước.
Radar tàu ngầm là một loại thiết bị sử dụng radar để phát hiện mục tiêu bằng sóng vô tuyến mà nó phát ra. Sau khi phát sóng radar, ăng-ten sẽ nhận sóng phản xạ từ mục tiêu quay trở lại, để biết vị trí của mục tiêu, các thông số chuyển động, biên độ, hình dạng và các thông tin khác. Radar của tàu ngầm bao gồm các loại chủ yếu như radar tìm kiếm, radar trinh sát, radar tấn công, radar phân biệt quân ta với địch. Các mục tiêu thăm dò là tàu trên mặt nước, máy bay và tên lửa đường không. . Phạm vi phát hiện của radar tương đối ngắn.
Sonar dưới nước dựa trên đặc tính lan truyền của sóng âm trong nước và sử dụng chuyển đổi sóng điện và xử lý thông tin để phát hiện tàu nổi. Quốc gia. Phương thức làm việc dựa trên sonar chủ động và sonar thụ động. Sonar hoạt động là tín hiệu âm thanh từ máy phát, được truyền trong nước. Sau khi gặp mục tiêu phản xạ, tiếng vọng này được máy thu nhận. Theo tốc độ lan truyền trong nước và khoảng cách thời gian giữa tín hiệu đến nơi nhận và hướng của sóng âm phản xạ, có thể xác định ngay khoảng cách và hướng của mục tiêu. Sonar thụ động không tự gửi tín hiệu mà chỉ nhận tín hiệu âm thanh từ mục tiêu gửi. Thông tin liên lạc dưới mặt đất được thực hiện thông qua hệ thống thông tin vô tuyến, chủ yếu là sóng ngắn, sóng cực dài và sóng cực dài. Để bảo vệ bí mật của tàu ngầm, ngày nay người ta thường sử dụng phương pháp liên lạc bằng sóng cực dài có bước sóng từ 100.000 đến 10.000.000 mét, có thể xuyên qua nước biển rất mạnh. . Tuy nhiên, anten mặt đất và anten thu sóng dưới nước rất rắc rối, số lượng thư tín để nhận điện báo bị hạn chế. Do đó, thông tin liên lạc bằng sóng siêu dài chỉ thích hợp cho các tàu ngầm đường dài và độ sâu lớn.